
Kết quả tìm kiếm
60 results found with an empty search
- Bí ẩn những xác chết di chuyển tìm đường về nhà.
Chuyện xác chết đột nhiên đứng dậy, đi lại bình thường và trở về nhà của mình nhường như chỉ có trong phim kinh dị của Hollywood. Tuy nhiên, đây lại là chuyện có thật và rất quen thuộc đối với người Toraja ở Indonesia, việc làm cho những thây ma biết đi là một nghi lễ lưu truyền từ xa xưa trong đời sống tâm linh của họ. “Ma thuật” có từ lâu đời Câu chuyện rợn người là một trong những tập tục mai táng kỳ lạ của bộ tộc Toraja tỉnh Nam Sulawesi, Indonesia (từ “Toraja” có nghĩa là “những người ở vùng đất cao”). Từ nhiều năm về trước khi vùng đất người Toraja sinh sống còn bị cô lập và dường như tách biệt với thế giới bên ngoài thì những tin đồn về ma thuật thần kỳ, làm cho xác chết đi đứng bình thường đã được nhiều người trên thế giới biết tới. Theo những người già nhất trong bộ tộc, việc làm cho thây ma biết đi có từ thời xa xưa. Vào thời ấy, một cuộc nội chiến đã xảy ra giữa những người Tana Toraja ở phía Tây và người Tana Toraja ở phía Đông. Người Tana Toraja ở phía Tây đã bị thua thảm hại và bị giết chết gần hết. Trong khi đó, người Tana Toraja ở phía Đông bị thiệt mạng ít hơn và hầu hết các chiến binh đều mang được xác của những người tử nạn về làng để chôn cất. Ngược lại, do không thể mang xác của những người xấu số về làng, người Tana Toraja ở phía Tây đã nghĩ ra một cách đặc biệt để chôn cất những người chết. Sau đó, họ dùng một phương thức thần bí nào đó làm các xác chết biết đi và tự tìm đường về làng của mình. Kể từ đó, người Tana Toraja vẫn giữ “ma thuật” này và cho đến nay các thầy phù thủy chỉ thực hiện khi có yêu cầu của người nhà người quá cố. Câu chuyện kỳ lạ này khiến nhiều người đặt dấu hỏi hoài nghi về tính các thực của thông tin và nếu là thật thì cơ chế nào khiến người đã chết nằm yên trong quan tài có thể đứng dậy đi lại như người sống? Nghệ thuật bảo quản xác chết hoàn hảo Từ năm 1905, các nhà khoa học đã tìm thấy những xác người còn nguyên vẹn, không bị phân hủy ở vùng đất này. Điều đặc biệt là dường như những xác người này không hề được tẩm ướp bất cứ một loại hóa chất nào, khác hẳn với phương pháp ướp xác được biết đến của người Ai Cập cổ đại. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học vẫn nghi ngờ có một loại chất đặc biệt giúp bảo quản xác chết, nhưng cho đến nay họ vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời. Còn theo những người dân địa phương, cách thức chôn cất độc đáo của người Tana Toraja cùng với điều kiện thổ nhưỡng đặc biệt có thể là một trong những nguyên nhân quan trọng lý giải cho việc tại sao việc thây ma biết đi lại chỉ có duy nhất ở vùng Mamasa, Indonesia. Khi một người trong làng qua đời, thi thể của họ sẽ được bọc bằng quần áo trước khi đặt vào quan tài. Sau đó, những người đàn ông sẽ khiêng chiếc quan tài ra nơi chôn cất của bộ lạc. Điều đặc biệt là nghĩa địa của người Tana Toraja nằm cheo leo trên những vách núi đá vôi dựng đứng. Tại đây, người ta đục thành những ô vuông ăn sâu bên trong đá, đủ dài và rộng để vừa một chiếc quan tài. Nhìn từ phía xa, những ngôi mộ nằm trong lòng núi trông giống những chiếc tổ chim bồ câu hay giống những ô cửa sổ của một khu nhà cao tầng. Chỉ những người đàn ông khỏe mạnh mới làm được công việc chôn cất vất vả này. Ban đầu, họ dùng thang tre để bắc lên những khoang mộ trên vách núi và sau đó phải cần tới 4 đến 5 người mới có thể vận chuyển thi thể người quá cố lên vách núi thẳng đứng như tường trước khi đặt người chết vào nơi yên nghỉ cuối cùng. Cũng dễ hiểu khi đến gần những ngôi mộ, người dân không hề thấy mùi hôi thối bởi những xác chết không bị phân hủy mà khô quắt lại, trông như một xác ướp. Nhiều xác chết bước ra khỏi quan tài sau nhiều năm vẫn còn lông mi, lông mày, tóc và khuôn mặt hầu như không bị biến dạng hay thay đổi nhiều. Theo những người dân nơi đây, việc những xác chết có “chất lượng” tốt như vậy có thể là do trong đá vôi ở vùng này có một loại chất giúp bảo quản xác người. Thêm vào đó việc những thi thể nằm sâu trong vách núi tránh được tác động của thời tiết hoặc sự đào bới của các loại động vật cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến việc các thi thể được giữ nguyên vẹn. Bởi lẽ, một xác chết sẽ không thể đi lại bình thường nếu như xương bị rời rạc mỗi nơi một chiếc. Hành trình về nhà của những xác chết Theo niềm tin của người trong bộ tộc, người chết phải quay trở về ngôi làng nơi anh ta được sinh ra để gặp mặt những người thân. Điều này rất quan trọng bởi vì họ sẽ hướng dẫn những kỹ năng giúp người chết bước vào một cuộc sống mới ở thế giới bên kia. Trước đây, nhiều người lo ngại quãng đường trở về nhà của những thây ma quá dài, và sợ rằng những thây ma này lại “chết” một lần nữa trên đường đi, nên họ thường thuê một thầy phù thủy đi đằng sau, nhằm giúp dẫn đường cho những thây ma này trở về nhà an toàn. Người chết phải tự thực hiện hành trình trở về nhà, bất chấp quãng đường đó xa hay gần. Sau khi được “làm phép”, xác chết có thể đi lại bình thường. Những thây ma di chuyển một cách cứng nhắc, trông giống như một rô-bốt và khuôn mặt dường như không biểu lộ bất cứ cảm xúc gì. Nếu một ai đó nói chuyện trực tiếp với xác chết, xác chết sẽ ngã xuống và không thể tiếp tục cuộc hành trình trở về nhà nữa. Do đó, một điều nguy hiểm trong hành trình trở về nhà của các xác chết là gặp những người còn sống và bị họ bắt chuyện. Để hạn chế rủi ro, các thầy phù thủy thường tìm những con đường vắng vẻ, gần như không có người qua lại để các xác chết có thể tự do đi lại mà không bị làm phiền. Làm xác chết biết đi bằng cách nào? Cho đến nay các nhà khoa học vẫn phải đau đầu đi tìm lời giải cho việc bằng cách nào mà phù thủy Toraja có thể khiến những xác chết đi lại và nhận biết được nhà của mình để trở về. Câu trả lời được tạm cho là hợp lý nhất là việc các thầy phù thủy đã sử dụng một loại chất độc dạng bột nhằm đưa người chết sống trở lại trong trạng thái vô thức, trong một khoảng thời gian nhất định. Theo đó, loại bột này được cho là chất cực độc đối với người sống do được chiết xuất từ những loài động vật rất độc trong tự nhiên như cá nóc, bọ cạp, nhện độc… Những chất này cũng được cho là tồn tại ở da và nội tạng của con sa giông, cóc, kỳ nhông, bạch tuộc vòng xanh… Tuy vậy, đối với người chết, nó lại có tác dụng chẳng khác nào thuốc thần giúp cải tử hoàn sinh. Khi chất bột này được “thổi” vào những xác chết, nó sẽ kích thích hệ thần kinh đã chết hoạt động trở lại một cách vô thức như một cái máy. Thường thì loại thuốc này sẽ làm cho các thây ma sống lại trong khoảng 3 ngày, đủ thời gian để tìm đường về nhà. Nếu muốn các thây ma sống lại lâu hơn, các phù thủy phải pha chế thuốc với tỷ lệ và liều lượng khác. Mặc dù vậy, nhiều người vẫn tỏ ra không thỏa mãn với câu trả lời trên và cho rằng việc làm những thây ma biết đi chỉ là một trò ma thuật tà đạo của các phù thủy. Ngày nay, người Tana Toraja cũng hiếm khi được thấy những thây ma tìm đường về nhà. Người ta e ngại rằng, chẳng bao lâu nữa câu chuyện về những thây ma biết đi sẽ lại chỉ có trong phim ảnh hoặc tưởng tượng. Bởi, ngày càng có ít người biết “ma thuật” này và ít gia đình nào có thể chi trả được chi phí cắt cổ cho việc thuê thầy phù thủy. Cho đến ngày nay, việc làm cho những xác chết biết đi vẫn là một bí ẩn làm đau đầu các nhà khoa học Indonesia và thế giới. Thực hư của sự thật khó tin này ra sao, có lẽ chỉ những phù thủy người Tana Toraja mới có câu trả lời xác đáng nhất. Dù dùng ma thuật hay không thì đây vẫn là một nghi lễ tâm linh quý cần được cộng đồng người Tana Toraja và chính phủ Indonesia gìn giữ và bảo vệ. Theo khoahoc.tv
- Cô gái có đôi mắt X-quang
Cô gái Nga 17 tuổi, Natasha Demkina từ thành phố Saransk được biết đến với khả năng "tia X". Không những có khả năng nhìn xuyên qua người, cô gái này còn có thể nhìn thấy bệnh tật. Các nhà khoa học thế giới rất quan tâm tới hiện tượng của cô gái này. Natasha Demkina được mời đến London, Anh và New York, Mỹ để tham gia các cuộc thử nghiệm. Các nhà nghiên cứu Anh quốc nhất trí công nhận khả năng khác thường của Natasha nhưng các nhà khoa học Mỹ vẫn do dự khi đưa ra kết luận. Họ có vẻ không tin vào sự thật là cô gái này đã thành công trong việc chẩn đoán bệnh của 4 trong số 7 bệnh nhân. Natasha Demkina vừa trải qua một cuộc thử nghiệm tương tự ở Tokyo, nơi các nhà khoa học Nhật Bản xác nhận khả năng của cô gái tia X Nga. Hiện Natasha là sinh viên ĐH Y Moscow. Yoshio Machi, giáo sư của ĐH Tokyo, đã mời cô tới thủ đô Nhật để kiểm tra khả năng kỳ diệu của cô lần nữa. Giáo sư Machi được biết đến như nhà khoa học nổi tiếng thế giới với các nghiên cứu về tiềm năng con người. Từng trải qua các thử nghiệm trước đó ở London và New York, Natasha đã đưa ra các điều kiện của mình đối với các nhà khoa học Nhật. Cụ thể cô nói mỗi bệnh nhân tham gia thử nghiệm phải có giấy khám sức khỏe. Ngoài ra, cô yêu cầu việc chẩn đoán chỉ tập trung vào một phần cơ thể nhất định như đầu hay tứ chi. "Tôi mất nhiều thời gian để giải thích và định rõ mọi thứ tôi có thể nhìn. Đôi khi tôi có thể nhìn thấy bệnh ngay từ giai đoạn đầu khi bác sĩ hay bệnh nhân mới chỉ có nghi ngờ rất nhỏ về chúng. Đó là lý do tại sao chúng tôi gặp một số vấn đề với các nhà khoa học Mỹ", Natasha nói. Trong cuộc kiểm tra ở Nhật, Natasha có thể nhìn thấy một trong những bệnh nhân có chân giả. Một bệnh nhân khác có nội tạng không cân xứng. Natasha dễ dàng chẩn đoán việc mang thai giai đoạn đầu và thậm chí còn chẩn đoán được bệnh lý của bào thai. Cô chẩn đoán được cong, gai xương sống ở nam bệnh nhân. Khi so sánh chẩn đoán của Natasha với phim X quang, các nhà khoa học Nhật thấy rằng chẩn đoán của cô chính xác. Khi Natasha kết thúc thử nghiệm với 7 bệnh nhân, các bác sỹ Nhật Bản vỗ tay không ngớt. Tuy nhiên, đó mới chỉ là giai đoạn đầu của cuộc thử nghiệm. Giáo sư Machi không thể bỏ qua nhận xét của các đồng nghiệp Mỹ. Các nhà khoa học Mỹ kết luận Natasha không thể nhìn xuyên qua cơ thể nhưng có thể đoán bệnh qua các vẻ bề ngoài. Giáo sư người Nhật này quyết định tiến hành cuộc thử nghiệm khác với cô gái. Lần này là ở một phòng khám bệnh cho động vật. Natasha được đề nghị chẩn đoán bệnh của một con chó già. Cô sợ ở gần động vật hung dữ nhưng các bác sỹ nói cô chỉ phải nhìn vào chân của nó. Sau 5 phút nhìn vào chân sau bên phải của con chó, cô phát hiện ra một bộ phận giả. Các nhà khoa học Nhật cũng không tin cô khi cô nói cô có thể nhìn ra bệnh qua ảnh chụp. Khi cô được nhìn ảnh thẻ của một người, cô nhanh chóng chẩn đoán người trong ảnh bị ung thư gan. Các nhà khoa học Nga cũng tỏ ra đặc biệt quan tâm với khả năng của cô gái tia X. Natasha sẽ sớm được kiểm tra ở Moscow khi cô thi xong các môn thi vào mùa xuân ở trường đại học. Khả năng đặc biệt của Natasha đã được kiểm tra bởi các bác sĩ tại một bệnh viện nhi ở thị trấn quê hương cô, nơi mà người ta đã đưa tin rằng cô đã chẩn đoán chính xác bệnh của một số bệnh nhân, bao gồm cả một trong số các bác sĩ đó. Sau khi sử dụng thị lực đặc biệt của mình để khám cho các bệnh nhân, đôi khi khả năng nhìn của cô đạt tới cấp độ phân tử, Natasha được cho là có khả năng vẽ lại những bức tranh về những gì mà cô nhìn thấy bên trong cơ thể họ. Cô dường như còn phát hiện ra một chẩn đoán sai của một bác sĩ tại bệnh viện đó về một nữ bệnh nhân rằng bà ta bị ung thư. Khi Natasha khám cho người phụ nữ này, cô bé chỉ nhìn thấy một “u nang nhỏ”. Cuộc kiểm tra lại cho thấy Natasha đã đúng và người phụ nữ thực sự không bị ung thư. Đôi mắt “chụp hình” Thế giới đã ghi nhận hàng loạt câu chuyện ly kỳ khác về sức mạnh của ánh mắt “như máy ảnh” và điều này đã được đăng tải trên báo chí. Ngay từ thế kỷ 19, họa sĩ mê chụp ảnh Pie Buse người Pháp đã thấy những hình ảnh trong giấc mơ, không rõ bằng cách nào đó, xuất hiện trong các cuộn phim mới chụp sau khi chính tay ông tráng phim cẩn thận. Các bức ảnh được phân tích và nghiên cứu rất chi tiết, nhưng đều không thể lý giải được hiện tượng này. Sau đó, bài báo đầu tiên nói về “những bức ảnh tâm thần” và các tia kỳ lạ phát ra từ đôi mắt của con người được công bố. Không chỉ có họa sĩ Pie Buse mà nhiều thợ ảnh ở Vowrrionhet, Permi, Calinin (Nga) cũng đã từng “chụp” được những bức ảnh mà trên thực tế hoàn toàn không tồn tại như cảnh tượng về chiến tranh hay con tàu của người ngoài hành tinh theo cách tương tự. Lúc đầu, các nhà nghiên cứu chỉ coi đó là ảo ảnh, thậm chí là trò vui để được nổi tiếng của những người thích đùa. Nhưng về sau, những hiện tượng như vậy được ghi lại ngày càng nhiều, xảy ra với những con người hoàn toàn khỏe mạnh về tâm thần. Nổi tiếng nhất trong loạt hiện tượng này phải kể đến một thủy thủ người Tây Ban Nha tên là Ted Sirius. Trước sự giám sát của một ủy ban đặc biệt với nhiều nhà khoa học danh tiếng, anh ta chăm chú nhìn lên một bức ảnh, ghi nhớ nó, trước khi chuyển cái nhìn của mình lên một tấm phim ảnh. Khi tấm phim được rửa xong, người ta nhận thấy nó có những hình ảnh lờ mờ tương tự như ở bức ảnh gốc. Điều này đã chứng minh rằng Ted Sirius không chỉ có khả năng dùng ánh mắt để “ghi nhớ” phim ảnh mà còn có thể ghi lại được các hình ảnh tưởng tượng trong đầu lên phim. Những hiện tượng tương tự cũng được các chuyên gia quan sát thấy ở những người mắc chứng bệnh ảo giác mạnh. Nhiều người có khả năng nhìn xuyên thấu và phát hiện bệnh tật như Heise, hoặc Laura Castro (với đôi mắt màu trắng kỳ lạ). Sai khiến và sát nhân Không chỉ có khả năng nhìn xuyên thấu hay chụp hình, từ xưa tới nay đã có nhiều bằng chứng cho thấy sức mạnh từ ánh mắt của con người có thể sai khiến. Các nhà Yoga và pháp sư Tây Tạng sau một quá trình luyện tập lâu dài có thể dùng ánh mắt để thuần hóa thậm chí tiêu diệt những con thú dữ. Những nhà dạy thú chuyên nghiệp và nhiều kinh nghiệm cũng khẳng định rằng họ có thể bắt thú vật dừng lại bằng một cái nhìn và để điều khiển các con vật thì ánh mắt nhiều khi còn hiệu quả hơn khẩu lệnh. Trong khi đó, nhiều nhà sử học từng bình luận, cái nhìn của nhà văn Nga Lev Tolstoi dường như có thể xuyên thấu người đối thoại, khiến họ cảm thấy bồn chồn. Còn cái nhìn của lãnh tụ Liên Xô Stalin thường khiến người khác phải cụp mắt xuống và tê liệt ý chí. Tuy nhiên, ánh mắt sai khiến trong nhiều trường hợp trở thành ánh mắt giết người. Nhà khoa học chuyên nghiên cứu các hiện tượng dị thường người Nga Igor Vinokurov từng miêu tả cái chết đột ngột của trưởng phòng một viện nghiên cứu thuộc cơ quan điều tra hình sự Moscow. Theo đó, ông này đã khiển trách gay gắt một nhân viên dưới quyền, khiến anh ta im lặng và nhìn thẳng vào mặt trưởng phòng với vẻ dữ dội khiến ông bất thình lình ngã gục, đập đầu xuống bàn rồi tắt thở. Cảnh sát không thể tìm ra nguyên nhân cái chết bởi trước đó, ông này hoàn toàn khỏe mạnh. Chuyên gia giải phẫu bệnh lý sau khi mổ tử thi cho biết, trái tim của người chết dường như đã bị ai đó nắm lấy và bắt nó ngừng đập, tương tự như với quả lắc của đồng hồ. Mọi người chỉ còn biết nghi ngờ cái nhìn căm thù của người cấp dưới là nguyên nhân khiến ông trưởng phòng thiệt mạng. Chưa thể giải thích rõ ràng Các chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nhãn khoa tỏ ra bất lực trước tất cả các hiện tượng kỳ quái về ánh mắt mà thế giới từng ghi nhận. Trong khi khoa học hiện đại chưa thể giải thích được khả năng “siêu phàm” này, một số người đưa ra giả thuyết rằng, nhiều cá nhân có một “giác quan đặc biệt”. Thông thường, những người có giác quan đặc biệt sẽ cảm nhận được những điều kỳ diệu sau khi gặp phải những kích thích từ bên ngoài như khi ngửi hay nếm mùi vị, nghe thấy một điệu nhạc, nằm mơ và ghi lại hình ảnh trên não bộ, hoặc chịu đựng một áp lực vô cùng lớn. Từ đó, họ sẽ có cảm giác như mình đang nhìn thấy một màu sắc phát ra từ cơ thể người nào đó, biết “in” lại ảnh, và khiến người khác cảm thấy sợ hãi bằng chính ánh mắt của mình. Những công trình nghiên cứu mới đây nhất của ngành nhãn khoa đều chứng tỏ rằng: con mắt – cũng như bất kỳ một hệ thống quang điện tử nào – không những có thể thu nhận mà còn phát xạ các tín hiệu. Bản thân cấu tạo của nhãn cầu và võng mạc mắt cũng gợi cho người ta liên tưởng tới một chiếc gương parabol có khả năng phản hồi các tia xạ. Tới trên 90% trường hợp trong số những người được thí nghiệm có khả năng dùng mắt phát ra các bức xạ kỳ lạ mang năng lượng sinh học rất mạnh. Những bức xạ ấy nếu nằm trong dải sóng ngắn với tần số cực cao, thì có thể tác động vật lý lên mọi vật xung quanh, tạo nên những hệ quả rõ rệt, thậm chí có thể xuyên thấu tựa như tia X hay laser. Nó cũng có thể gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, cũng như hoạt động của toàn bộ cơ thể. Trên tròng đen của mắt có những điểm chịu trách nhiệm về hoạt động của tất cả các cơ quan bên trong. Nếu phóng một tia laser hẹp vào một khu vực nào đó của tròng đen, chẳng hạn vào khu vực của tim, có thể làm tim ngừng đập. Những nhà Yoga đã từng biểu diễn khả năng uốn cong một vật bằng “nhãn lực” khi nhìn chăm chú vào nó. Nếu có thể chứng minh được các tia phát xạ từ mắt cũng có bản chất tương tự như tia laser, con người có thể tin được về sự tồn tại của các nhân vật trong các truyện viễn tưởng có khả năng tiêu diệt hay đốt cháy kẻ thù chỉ bằng cái nhìn. Và khi ấy, không thể coi thường tác động to lớn cũng như sức mạnh khôn lường của đôi mắt, mà bình thường vẫn được coi là “cửa sổ tâm hồn” của mỗi con người… Theo NetNam/Prava, CAND
- Giải mã hiện tượng nhớ lại kiếp trước.
Năm 20 tuổi, cô gái Elina Markand (người Đức) bị tai nạn. Khi tỉnh dậy, Elina bỗng nói tiếng Italy rất thông thạo, mặc dù trước đó cô chưa từng học một ngoại ngữ nào. Cô còn tự nhận mình là Rozetta Caste Liani, công dân Italy, và yêu cầu được trở về thăm quê hương. Về tới "nhà", Elina mới biết rằng người có tên Rozetta Caste đã mất từ năm 1917. Đón cô là một bà già lụ khụ, xưng là con gái của Rozetta Caste. Elina chỉ tay vào bà già, nói: “Đây là Fransa, con gái tôi!”. Lúc ấy, tất cả mọi người đều giật mình, vì người đàn bà này quả thực tên là Fransa, đúng như Elina gọi. Vào thập niên trước, một cô gái nhỏ người Anh đã biến thành "một người xa lạ" sau khi tỉnh dậy một buổi sáng. Em không nhận ra mẹ và người thân của mình, không nói được tiếng mẹ đẻ trong khi lại thông thạo tiếng Tây Ban Nha, và lúc nào cũng tỏ ra sợ sệt. Các bác sĩ đều có kết luận giống nhau: Em bé 10 tuổi này không có biểu hiện gì về bệnh lý hoặc tâm thần, sức khoẻ tốt. Em nhận mình là người Tây Ban Nha và sống ở thành phố Toledo. Em kể lại rằng một người cùng phố do ghen ghét và đố kỵ đã đâm chết em năm em 22 tuổi. Cảnh sát Tây Ban Nha đã thẩm tra lại câu chuyện kỳ quặc về “tiền kiếp” của em, và kết luận, đúng như lời em kể. Ở số nhà đó trong thành phố Toledo từng có một cô gái 22 tuổi bị hãm hại. Những người hàng xóm đã tìm thấy xác cô ngay trong nhà. Câu chuyện càng sáng tỏ hơn khi hung thủ (lúc này đã già) tự đến gặp cảnh sát để thú tội. Các nhà khoa học còn tiếp tục ghi nhận nhiều trường hợp khác. Chẳng hạn có người đột nhiên "biến" thành công dân La Mã cổ đại, và bằng chứng khó chối cãi là anh ta biết sử dụng được thứ ngôn ngữ “nguyên thủy” của mình, không còn ai hiểu nữa. Tương tự như vậy, có người châu Âu bỗng nói tiếng Ai Cập, mất hẳn khả năng dùng tiếng mẹ đẻ. Rồi anh ta mô tả chính xác cảnh vật ở vùng sông Nile, và tự nhận có nguồn gốc Ai Cập. "Trí nhớ gene" Một số nhà khoa học đã thử đưa ra một lý thuyết giải thích hiện tượng trên với khái niệm "trí nhớ gene": Nếu các vùng "ngủ" trong ADN bị kích thích, con người có thể "trở về tiền kiếp". Họ bỗng nhớ lại gốc gác La Mã hoặc Ai Cập từ xa xưa. Cũng do ảnh hưởng bởi tiền kiếp mà nhiều người có thói quen xoa râu quai nón, mặc dù trên mặt không hề có râu. Người khác lại có thói quen nhấc vạt áo vét, y như động tác vén váy dài đang mặc khi vượt qua vũng nước. Nhưng ở cô Elina người Đức và bé gái người Anh thì rõ ràng không hề có quan hệ nào về “gene di truyền” với người mà mình hoá thân, có nghĩa là trường hợp của họ không thể giải thích bằng “trí nhớ gene”. Vậy nó là thế nào? Ở châu Á, người ta rất quen thuộc với thuyết luân hồi của Phật Giáo, cho rằng thể xác con người – tức là cái “bề ngoài” - luôn thay đổi. Còn cái “bên trong thể xác” - tức linh hồn - là vĩnh cửu. Theo thuyết luân hồi, cuộc sống không khởi đầu bằng sự sinh ra, và cũng không kết thúc bằng cái chết. Cuộc sống cứ trôi vô tận. Linh hồn ở mỗi "kiếp" lại nhập vào một thân xác mới. Vì thế, sẽ không lạ khi cô Elina và bé gái người Anh đột nhiên nhớ lại kiếp trước của mình. Thuyết về kết cấu "phách" Lại có một số nhà vật lý và sinh học đưa ra cách giải thích vấn đề trên bằng “kết cấu phách”. "Phách" ở đây tất nhiên không phải là "phách" trong âm nhạc, mà là một khái niệm chỉ "phần bất biến" của con người, còn được hiểu là "phần năng lượng tách ra dưới dạng sóng". Khi người chết, “phách” liền tan vào vũ trụ. Vì thế, “phách” có thể hiểu là một loại “trường sóng hạt cơ bản nhẹ”, hoặc là “tập hợp những năng lượng thông tin cá thể”. Theo các nhà khoa học này, thuyết về phách có thể lý giải được đa phần hiện tượng thần đồng (trong âm nhạc, thi ca, khoa học…). Ở tuổi rất trẻ, những thần đồng này đã tích tụ được lượng kiến thức khổng lồ mà người bình thường cả đời cũng khó có được. Theo thuyết này, “phách” của các thiên tài là sản phẩm của hàng vạn kiếp trong quá khứ dồn lại trong một cơ thể hiện hữu. Nói cách khác, "trường sóng hạt cơ bản nhẹ" hay những "tập hợp thông tin cá thể" đã tập trung vào cơ thể họ theo một quy luật nào đó. Nhiều nhà khoa học đã mạnh dạn đề cập tới những khái niệm rất mới về hiện tượng "nhớ về quá khứ". Họ đã lập ra một "quy trình công nghệ" cho phép bằng thực nghiệm đưa con người vào trạng thái giữa mơ và thực. Ở trạng thái lơ lửng kỳ ảo này, người tham gia thực nghiệm vẫn nhìn thấy những gì quanh mình, nhưng trong tiềm thức, họ lại thấy cả quá khứ. Phương pháp thực nghiệm này đã được áp dụng để chữa một số bệnh tâm thần và đem lại kết quả. Mặc dù đã có những thành tựu nhất định, nhưng đến nay, những chuyện về "siêu trí nhớ" gần như vẫn nằm ngoài vòng nghiên cứu của khoa học chính thống. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là nhân loại chịu bó tay để tự rơi vào vòng "bất khả tri", các nhà khoa học vẫn đang tìm cách để giải thích những điều khó giải thích nhất. Theo Vietnamnet
- Hiện tượng các vật thể không có bóng
Hiện tượng này xảy ra khi mặt trời ở góc 90 độ, ngay trên đầu người quan sát, gọi là thiên đỉnh lúc buổi trưa hay còn được gọi là Lahaina Noon. Một hiện tượng mặt trời kỳ lạ khiến các vật thể thẳng đứng không có bóng đang gây chú ý trên mạng xã hội, thậm chí nhiều người còn cho rằng nó trông giống như những bức ảnh được chụp từ trò chơi điện tử Grand Theft Auto. Hiện tượng này xảy ra khi mặt trời ở góc 90 độ, ngay trên đầu người quan sát, gọi là thiên đỉnh lúc buổi trưa hay còn được gọi là Lahaina Noon. Hiện tượng này khiến cho bạn dùng đứng giữa trời nắng cũng sẽ không thể nhìn thấy bóng của những chiếc cột đổ dài xuống nền như bình thường. Nó xảy ra ở nhiều địa điểm khác nhau dọc theo đường xích đạo, nhưng gần đây nhất đã xảy ra ở Hawaii, và được một người dùng mạng xã hội đăng tải bức ảnh đáng kinh ngạc về hiện tượng này. Một số người khác giải thích rằng họ hoàn toàn bị sốc khi trải nghiệm về hiện tượng trong cuộc sống thực. "Tôi bước ra khỏi quán bánh mỳ, vô cùng bất ngờ khi phát hiện không có chút bóng râm nào cả. Tôi cảm thấy mình rất cao", "Lái xe về căn hộ của mình, tôi rất kinh ngạc. May mắn hiện tượng chỉ xuất hiện trong vòng vài phút. Đó là điều từng xảy ra khi tôi 17 tuổi". Có người nói đùa: "Người đàn ông của tôi quên bật chế độ cài đặt bóng tối". Một người khác giải thích rằng họ đã bị sốc khi trải nghiệm hiện tượng này trong cuộc sống thực. Hiện tượng kỳ lạ này xảy ra hai lần một năm ở các khu vực nhiệt đới, với Hawaii là bang duy nhất của Hoa Kỳ chứng kiến nó. Nó được đặt tên từ thuật ngữ Hawaii "la haina", có nghĩa là "mặt trời độc ác". Và không chỉ Hawaii mới có thể trải qua hiện tượng kỳ lạ nhưng đáng kinh ngạc này. Hiện tượng này có thể xảy ra ở vùng nhiệt đới, vì vậy bất cứ nơi nào có vĩ độ 0 sẽ thấy nó hai lần một năm. Những nơi khác quá xa đường xích đạo để mặt trời chiếu trực tiếp trên đầu. Tuy nhiên, có một số địa điểm khác có thể nhìn thấy hiện tượng kỳ lạ này bao gồm Singapore, Nicaragua và một số vùng của Philippines. Nguồn: giaoducthoidai.vn
- Giải mã xá lợi, vật chất bí ẩn trong tro cốt cao tăng.
Đó là những hạt tinh thể với đủ màu sắc, long lanh như ngọc, rắn như kim cương, búa đập không vỡ, lửa thiêu không cháy. Chúng được tìm thấy trong đống tro tàn sau khi hỏa thiêu hài cốt của một nhà tu hành nào đó. Cho đến nay, khi nền khoa học kỹ thuật của nhân loại đã phát triển ở trình độ cao, chúng vẫn tồn tại như một bí ẩn chưa được khám phá. Ngọc xá lị của các cao tăng - bí ẩn chưa có lời giải Bảo vật của nhà Phật Xá lị (xá lợi) là từ ngữ phiên âm tiếng Phạn: sarira - nghĩa đen là “những hạt cứng”. Theo ghi chép trong lịch sử Phật giáo, khi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni viên tịch, các tín đồ đã đem xác của ngài đi hỏa táng. Sau khi lửa tàn, họ phát hiện thấy trong phần tro còn lại có lẫn rất nhiều tinh thể trong suốt, hình dạng và kích thước khác nhau, cứng như thép, lóng lánh và tỏa ra những tia sáng muôn màu, giống như những viên ngọc quý. Họ đếm được cả thảy 84.000 viên, đựng đầy trong 8 hộc và 4 đấu. Nó được đặt tên là xá lị, được coi là một bảo vật đặc biệt quý hiếm của Phật giáo. Những năm gần đây, lịch sử Phật giáo cũng như nghiên cứu của các nhà khoa học đã ghi lại khá nhiều trường hợp các vị cao tăng sau khi viên tịch, hỏa thiêu đã để lại xá lị, chẳng hạn như: Tháng 12/1990, một vị cao tăng là Hoằng Huyền Pháp sư ở Singapore viên tịch, sau khi thi thể được hỏa thiêu, người ta phát hiện thấy trong phần tro của ngài có 480 hạt cứng, hạt to cỡ như hạt đỗ tương, hạt nhỏ cỡ bằng hạt gạo, trông gần như trong suốt và tỏa sáng lấp lánh như những hạt kim cương. Sau khi phân tích, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng, đó chính là thứ gọi là xá lị. Tháng 3/1991, Phó hội trưởng Hội Phật giáo Ngũ Đài Sơn - ủy viên thường vụ Hội Phật giáo Trung Quốc, sau khi viên tịch đã được tiến hành nghi thức hỏa táng theo tâm nguyện của ngài, trong phần tro còn lại người ta phát hiện được tới 11.000 hạt xá lị, đạt kỷ lục thế giới từ trước đến nay về những trường hợp xá lị được ghi nhận một cách chính thức. Viên xá lị có thể to như quả trứng vịt, đó là trường hợp của Pháp sư Khoan Năng, vị chủ trì Tây Sơn Tẩy Thạch Am ở huyện Quế Bình, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Ngày 27/9/1989, ngài viên tịch thọ 93 tuổi. Sau khi hỏa thiêu người ta tìm thấy trong tro hài cốt 3 viên xá lị màu xanh lục, trong suốt, đường kính mỗi viên lên tới 3-4cm, tựa như những viên ngọc lục bảo. Lại có một số trường hợp, xá lị chính là một bộ phận nào đó của cơ thể không bị thiêu cháy. Tháng 6/1994, Pháp sư Viên Chiếu 93 tuổi, chủ trì chùa Pháp Hoa, ở núi Quan Âm, tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc, trong một buổi giảng kinh tối đã nói với các đệ tử là: Ta sẽ để lại trái tim cho chúng sinh. Sau đó vị sư này ngồi kiết già và siêu nhiên viên tịch. Theo đúng pháp quy của nhà chùa, các đệ tử đặt thi thể bà lên một phiến đá xanh, xếp củi chung quanh và tiến hành hỏa hóa. Lửa cháy sáng rực suốt một ngày một đêm. Trong đống tro nguội, các đệ tử thu được 100 viên xá lị to nhỏ khác nhau. Có viên thì hình tròn (xá lị tử), có viên lại nở xòe ra như những bông hoa (xá lị hoa). Những bông xá lị hoa trông rất đẹp, lóng lánh như những bông hoa tuyết, chung quanh còn được giát bằng những hạt xá lị nhỏ cỡ hạt gạo, sắc đỏ, vàng, lam, nâu... hết sức kỳ diệu. Nhưng điều kỳ diệu hơn cả là trái tim của bà không hề bị thiêu cháy. Sau khi ngọn lửa tắt trái tim vẫn còn mềm, nóng, rồi mới nguội dần và cứng lại, biến thành một viên xá lị lớn, màu nâu thẫm. Khoảng 100 đệ tử có mặt trong lễ hỏa táng đã tận mắt chứng kiến hiện tượng lạ lùng đó. Theo kể lại, Pháp sư Viên Chiếu là người từ bi, tính tình điềm đạm và ôn hòa, thường ngày bà chỉ ăn rất ít. Chùa Pháp Hoa đã cho người mang những viên xá lị đó đến giao lại cho Hội Phật giáo tỉnh Thiểm Tây. Ở Việt Nam, sử sách chính thống cũng ghi nhận nhiều trường hợp xuất hiện hạt xá lị khi hỏa thiêu các tăng nhân. Đại Việt Sử ký toàn thư, kỷ Lý Thái Tông cho biết: Tháng 4 năm 1034 triều vua Lý Thái Tông có 2 nhà sư là Nghiêm Bảo Tính và Phạm Minh Tâm viên tịch. Khi hỏa thiêu xác thân 2 vị này thấy trong đám tro cốt có những hạt xá lị. Nhà vua xuống chiếu đem những hạt này vào thờ ở chùa Trường Thánh. Trong kỷ Trần Anh Tông cũng có chép khi Trần Nhân Tông tịch, đệ tử là Pháp Loa hỏa thiêu xác thân của ông có thu được 3.000 hạt xá lị. Pháp Loa mang xá lị về chùa Từ Phúc ở kinh sư. Vua Trần Anh Tông có ý nghi ngờ thì chợt Thái tử Mạnh thấy mấy hạt ở trước mặt mình bèn đưa cho mọi người xem. Khi kiểm lại các hạt trong hộp thì thấy quả có thiếu mấy hạt. Nhà vua thấy thế xúc động đến phát khóc. Từ đó mới bỏ ý nghi ngờ. Cũng là câu chuyện này nhưng trong Nam ông mộng lục, Hồ Nguyên Trừng chép rằng có mấy hạt xá lị bay vào tay áo Thái tử Mạnh. Khoa học chưa có lời giải đáp? Vài chục năm trở lại đây, giới khoa học bắt đầu tìm cách giải thích những hiện tượng huyền bí được nhà Phật nói đến trong kinh điển như họ đã từng nghiên cứu lý giải các hiện tượng trong thiên nhiên, vũ trụ và con người. Thế nhưng, khi bắt tay vào nghiên cứu hiện tượng xá lị, họ đã gặp phải không ít khó khăn, trở ngại. Trước đây người ta không tin là có xá lị Phật tổ. Mãi đến năm 1997, ông W.C Peppé, người Pháp, khi tiến hành khảo cổ tại vùng Piprava, phía Nam Népal đã tìm thấy những viên xá lị đựng trong một chiếc hộp bằng đá. Trên hộp có khắc những văn tự Brahmi, và người ta đã đọc được nội dung của nó như sau: “Đây là xá lị của đức Phật. Phần xá lị này do bộ tộc Sakya, nước Savatthi phụng thờ” (Theo Phật quang từ điển). Sự khám phá này đã chứng minh những gì được ghi lại trong Kinh Trường A Hàm và rải rác ở những sách kinh điển của Phật khác về việc phân chia xá lị đức Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại khi Phật nhập Niết bàn là có thật. Điều kỳ lạ là trải qua hơn 25 thế kỷ, xá lị đức Phật vẫn còn nguyên vẹn, lấp lánh màu sắc. Về sự hình thành của những viên xá lị, cho đến nay vẫn tồn tại nhiều cách giải thích khác nhau. Các nhà xã hội học cho rằng, do thói quen ăn chay, thường xuyên sử dụng một khối lượng lớn chất xơ và chất khoáng, trong quá trình tiêu hóa và hấp thụ, rất dễ tạo ra các muối phosphate và carbonate, những tinh thể muối đó tích lũy dần trong các bộ phận của cơ thể và cuối cùng biến thành xá lị. Tuy nhiên, giả thuyết này không đủ sức thuyết phục. Bởi lẽ số người ăn chay trên thế giới có tới hàng trăm vạn, nhưng tại sao không phải ai khi bị hỏa táng cũng sinh xá lị. Số người theo đạo Phật cũng nhiều vô kể, thế nhưng tại sao trong cơ thể của những tín đồ bình thường lại không có xá lị? Các nhà khoa học lại cho rằng, có thể xá lị là một loại hiện tượng có tính bệnh lý, tương tự như bệnh sỏi thận, sỏi bàng quang, sỏi mật... giả thuyết này cũng khó đứng vững. Bởi vì, sau khi đưa xác đi thiêu, trong phần tro của những người mắc các chứng bệnh kể trên, không hề phát hiện thấy có xá lị. Mặt khác, những cao tăng có xá lị thường là những người lúc sinh thời thân thể rất khỏe mạnh và tuổi thọ cũng rất cao. Nhà Phật cũng có những quan điểm riêng về vấn đề xá lị. Quan điểm thứ nhất cho rằng xá lị là kết quả của quá trình tu hành và khổ luyện. Quan điểm thứ hai cho rằng: xá lị là kết quả của quá trình tu dưỡng đạo đức, chỉ ở những người có tấm lòng đại từ đại bi, luôn làm việc thiện thì sau khi viên tịch mới có thể sinh xá lị. Tuy nhiên, cuối cùng thì xá lị đã được hình thành như thế nào? Thành phần của nó ra sao? Chẳng phải kim loại, chẳng phải phi kim, cũng chẳng phải kim cương, lục bảo, chỉ là tro cốt còn lại của người tu hành sau khi hỏa táng, vậy mà sao đốt nó hoài cũng không cháy, thậm chí vẫn sáng lấp lánh màu sắc, thách thức với thời gian, chẳng mảy may hư hỏng... Hàng loạt câu hỏi như vậy cho đến nay vẫn là những câu đố chưa có lời giải đáp! Theo khoahoc.tv
- Bí ẩn Kumanthong, búp bê ma quái
Kuman Thong là tên gọi của người Thái dành cho “cậu bé vàng” một anh nhi được thầy gia công tế luyện. Tinh thần trong sáng của đứa bé hết hợp chú thuật và thần lực của các vị Tổ thông qua việc tế luyện công phu của pháp sư sẽ cho ra đời một tiểu quỷ có nhiều khả năng đặc biệt. Vào một ngày tháng 5/2012, nhân viên an ninh tại một sân bay của Thái Lan khi kiểm tra hành lý của một kẻ tình nghi đã phát hiện sự việc kinh hoàng: trong chiếc túi xách của người đàn ông là sáu thai nhi đã chết, được sấy khô và bọc kín trong những chiếc lá bằng vàng. Nghi can 28 tuổi tên là Chow Hok Kuen, quốc tịch Đài Loan, thừa nhận đã mua những thi hài còn chưa hoàn thiện này với giá 6.000 USD với ý định mang về quê để bán lại như là một thứ bùa may mắn. Sự việc sau đó được che giấu khỏi giới truyền thông và chỉ được một tờ báo địa phương đưa vài dòng tin ngắn ngủi. Tuy nhiên câu chuyện rùng rợn về kuman thong (trong tiếng Thái nghĩa là “cậu bé vàng”) cùng quyền năng bí ẩn của nó thì đã tồn tại trong nền văn hóa truyền thống của Thái Lan từ rất lâu đời. Truyền thuyết về kuman thong Bắt nguồn từ câu chuyện bi thảm được một nhà thơ nổi tiếng sống ở thế kỷ 19 của Thái Lan – Sunthon Phu kể lại trong tác phẩm của ông, cuốn tiểu thuyết Khun Chang Khun Phaen. Trong câu chuyện, Khun Phaen là một vị tướng trẻ tài ba rất thân thiết với nhà vua, đồng thời cũng nhận được sự sủng ái từ một thầy phù thủy quyền uy trong vương quốc. Vị phù thủy nọ yêu mến Khun Phaen đến nỗi đã quyết định gả con gái yêu của lão cho chàng. Thật không may, chỉ một thời gian ngắn sau khi người vợ xinh đẹp của Khun mang thai, mối quan hệ của chàng và bố vợ bắt đầu rạn nứt. Nguyên nhân xuất phát từ những bất đồng và mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong việc giúp nhà vua điều hành đất nước. Đỉnh điểm của sự việc là khi tay phù thủy độc ác quyết định mưu hại con rể của mình. Ông ta đã xúi con gái đầu độc người chồng mới cưới. Thế nhưng sự việc đã bị Khun Phaen phát hiện, và một thảm kịch ghê rợn hơn đã bắt nguồn từ đó. Cơn điên dại vì bị phản bội cộng với khao khát báo thù đốt cháy tâm can, Khun Phaen đã biến thành quỷ dữ. Khun mổ bụng và lôi đứa con vừa mới thành hình ra khỏi cơ thể người vợ trẻ. Với thai nhi đẫm máu trên tay, Khun chạy tới ngôi đền thiêng, đốt một đống lửa lớn rồi đặt cơ thể bé bỏng đó lên tấm vỉ sắt, sau khi đã bọc nó vào mảnh vải thiêng có ghi những lời cầu nguyện. Khun Phaen cầu nguyện suốt đêm, trong khi đống lửa và tấm vỉ sắt đã sấy khô thai nhi nhỏ bé. Sáng hôm sau khi nghi lễ man rợ hoàn thành, linh hồn của đứa trẻ tội nghiệp đã hóa thành một bóng ma, một dạng “thiên thần hộ mệnh” luôn đi theo bảo vệ và mang lại may mắn cho người đã chính tay giết nó. Đó chính là nguồn gốc của kuman thong – thứ bùa chú bí ẩn và rùng rợn nhất trên thế giới. Người nuôi Kuman Thong với nhiều mục đích sử dụng khác nhau như hộ pháp hoặc gia tăng pháp lực cho các pháp sư chơi ngải nhưng mục đích chính của nhiều người vẫn là giúp đỡ họ trong vấn đề tiền bạc. Kuman Thong là tên gọi chung của các bức tượng nhỏ làm bằng đồng hoặc gốm …. Có hình dạng 1 đứa bé với một khuôn mặt đang mỉm cười. Các bực tượng này là nơi ẩn náu cho linh hồn các đứa bé đã chết vậy làm sao để có được linh hồn của một đứa bé đã chết ? Có lẽ phải nói tới mặt trái của bức tượng này, vì sự nổi tiếng của Kumanthong vẫn còn tồn tại một thị trường đen cho các loại bản gốc của Kuman Thong làm từ thai nhi đã chết trong bụng mẹ hoặc các hài cốt có được từ việc mua ở các tụ điểm phá thai. Trong tháng 5 năm 2012, một công dân Anh được sinh ra tại Đài Loan đã bị bắt tại Bangkok với rất nhiều các hài cốt của em bé trong hành lý của mình.Ông đã mua chúng ở Thái Lan và dự định bán lại chúng tại Đài Loan để kiếm lợi nhuận. Trong năm 2010, một vị cảnh sát tại Bangkok tên Wat Phai Ngoen đã phát hiện nhiều xương sụn thai nhi bị phá thai thai được tìm thấy trên các cơ sở ở thị trường đen sau đó được đưa về các ngôi đền thờ táng, ông bắt đầu điều tra các việc làm phi đạo đức từ phòng phá thai bất hợp pháp, một số luồng ý kiến cho rằng người ta thu gom những thi thể này nhằm rao bán cho các học viên của ma thuật đen. Kuman Thong thực ra không phải là một trong những bức tượng bằng nhựa mỉm cười mà bạn nhìn thấy trên rất nhiều đền thờ trên khắp Thái Lan. Các bản gốc của Kuman Thong là một cái gì đó nham hiểm hơn và cấm kỵ của một nghệ thuật và ma thuật đen tối nhất của nó. Để làm Kuman Thong, đầu tiên phải phẫu thuật loại bỏ một thai nhi chết trong bụng mẹ từ tử cung của người mẹ và trải qua một buổi lễ, buổi lễ này phải được thực hiện bởi một người được đào tạo và nắm bắt những bí mật cổ xưa của Thái Lan là gọi hồn trong một nghĩa trang vào ban đêm với các em bé đã chết khô và rang trên lửa được các pháp sư tụng các thần chú và những câu thần chú bí mật này sẽ ràng buộc linh hồn của đứa trẻ chết non. Sau khi được rang trên lửa và sấy khô, hài cốt được bao phủ trong sơn mài bằng vàng đó là lý do ban đầu nó có tên là Kuman Thong. Khi bạn đưa một Kuman Thong về nhà, bạn phải lập một ngôi đền cho đứa bé đó và thờ cúng nó như một đứa con của mình. Người ta cho rằng Kuman Thong có thể ban ân huệ cho ông chủ của mình nhưng chỉ khi đứa bé ấy cảm thấy hạnh phúc, vậy nên bạn phải rất cận trọng trong việc thờ cúng nó. Nhưng sự giúp đỡ của các thứ tâm linh luôn có giá của nó. Nếu bạn đã chọn mang Kuman Thong vào nhà của bạn thì bạn phải chịu trách nhiệm chăm sóc nó tử tế bởi vì nó là một đứa trẻ ma, nếu bị bỏ rơi nó có thể ném một cơn giận nóng nảy kinh khủng vào bạn. Vì Kuman Thong là một đứa trẻ nên người nuôi bày đặt rất nhiều đồ chơi xung quanh, việc chăm sóc Kuman Thong liên quan đến việc cho nó một cái gì đó để ăn và uống mỗi ngày chẳng hạn như bánh, kẹo hoặc đồ ăn nhẹ khác được coi là đồ cúng phù hợp. Đối với đồ uống Kuman Thong thích Nam-Daeng. Nam-Daeng có nghĩa là “nước đỏ” là một loại thức uống có đường được pha chế với màu nhân tạo đỏ tươi và hương liệu từ cây sala (Salacca wallichiana). Những người giữ Kuman thong ở nhà thường gặp những điều kỳ lạ xảy ra như nghe thấy âm thanh cười nói của một đứa trẻ hoặc những tiếng bước chân nhỏ chạy quanh như một đứa trẻ đang chơi đùa điển hình như mở hoặc đóng cửa. Đừng bao giờ nghĩ rằng bạn có thể thoát khỏi một Kuman Thong khi bạn đã có nó vì nó có thể gây ra cho bạn rất nhiều rắc rối khi bạn là một người sở hữu bình thường mà không có được năng lực như các pháp sư. Thay vào đó nếu bạn không muốn sở hữu một Kuman Thong trong nhà nữa thì hãy đến một ngôi đền nơi mà có các pháp sư giúp bạn thực hiện nghi lễ để giải phóng bạn khỏi gánh nặng chăm sóc cho các con ma. *Thông tin trong bài chỉ mang tính tham khảo Theo Diệp Thảo, caobang.tintuc.vn
- Huyền thoại linh thiêng về Chị Võ Thị Sáu.
Nói đến người con gái anh hùng Võ Thị Sáu của quê hương Đất Đỏ thì ai ai cũng biết. Khắp nước ta, nhiều thành phố, thị xã có đường Võ Thị Sáu, nhiều nơi có trường học mang tên Võ Thị Sáu. Nhiều người còn thuộc lòng lý lịch chị Sáu: Võ Thị Sáu tên thật là Nguyễn Thị Sáu, sinh năm 1933 tại thị trấn Đất Đỏ, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa. Năm 1947, khi mới 14 tuổi, chị Sáu trở thành chiến sĩ trinh sát của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Tết Canh Dần (1950), Võ Thị Sáu tình nguyện tìm diệt bọn ác ôn chuyên vào chợ Đất Đỏ quê chị để cướp bóc. Diệt được bọn ác ôn này, nhưng Sáu lại bị bọn ác ôn khác đuổi theo, bắt được. Tháng 4-1950, Võ Thị Sáu bị giam ở khám Chí Hoà. Bọn Pháp mở phiên toà xử chị "án tử hình" khi chưa đủ tuổi thành niên. Pháp sợ dư luận phản đối, nên chúng đưa Võ Thị Sáu ra Côn Đảo để hành quyết. Bốn giờ sáng ngày 21-1-1952, tàu chở Võ Thị Sáu cùng với 40 tù chính trị và 3 tử tù nữa vượt biển ra Côn Đảo. Ngày 23-1-1952, người tử tù nhỏ tuổi nhất ở Côn Đảo không cho kẻ thù bịt mắt, cất cao tiếng hát bài Tiến quân ca. Khi giặc nổ súng, Võ Thị Sáu thét lên: Đả đảo thực dân Pháp! Việt Nam độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Đó là 7 giờ sáng ngày 23-1-1952, Võ Thị Sáu chưa đầy hai mươi tuổi. Trong hành trang tâm hồn tôi có những câu thơ về Chị Sáu của nhà văn Phùng Quán: Nghiêng mình Sáu hái bông hoa ven đường/ Cài lên mái tóc rối tung/ Cất cao tiếng hát giữa vòng lưỡi lê…/ "Trên cành chim hót chim ơi/ Ta làm cách mạng ta vui đến cùng"… Tuổi thơ tôi ở miệt cát Thượng Luật heo hút ven biển Quảng Bình cũng thuộc bài hát về chị Sáu: "Mùa hoa lêkima nở. Ở quê ta miền Đất Đỏ. Thôn xóm vẫn nhắc tên người anh hùng. Đã chết cho… mùa hoa lêkima nở… Chị Sáu đã hi sinh rồi. Giọng hát vẫn như còn vang dội. Vào trái tim của những người đang sống. Giục đi lên không bao giờ lui…". Năm 1993, Võ Thị Sáu được Nhà nước truy tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tại thị trấn Đất Đỏ đã dựng tượng Võ Thị Sáu cao 6m. Ở Côn Đảo, mộ chị Sáu ở khu B được xây lại đàng hoàng hơn, là ngôi mộ được nhiều người thăm viếng nhất. Huyện Côn Đảo cũng đã xây dựng Nhà tưởng niệm anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu trong một khuôn viên rộng, kề bên núi và biển, quanh năm lộng gió, nhưng ra Côn Đảo, đến nghĩa trang Hàng Dương, tôi còn được nghe nhiều huyền thoại về chị Sáu. Những câu chuyện linh thiêng, bí ẩn, nhưng ẩn chứa một sự ngưỡng mộ, tôn thờ theo truyền thống Á Đông đối với những người anh hùng vì dân, vì nước đã được bất tử hóa như một vị thần. Những câu chuyện người dân Côn Đảo kể về chị Sáu không có trong sử sách, nhưng còn lưu truyền mãi như những truyền thuyết dân gian… Ở tượng đài Võ Thị Sáu tại thị trấn Đất Đỏ cũng như ở Côn Đảo, người dân quanh năm khói nhang cho cô Sáu. Anh Bảy Oanh, một cựu tù Côn Đảo hiện là Trưởng Ban quản lý Di tích Côn Đảo kể rằng, ở Côn Đảo bây giờ, nam nữ thanh niên trước khi làm đám cưới thường ra Hàng Dương viếng mộ chị Sáu. Họ thắp hương, cúng gương lược, rồi lầm rầm khấn vái mong chị phù hộ cho "đôi uyên ương trăm năm hạnh phúc". Hiện vẫn còn vài chục gia đình công chức, gác ngục thời ấy ở lại Côn Đảo, trong nhà họ đều có bàn thờ chị Sáu và coi chị như thần hộ mệnh! Bà con gọi chị Sáu là cô Sáu hoặc bà Sáu. Khi thề bồi thì người ta nói: "Thề có cô Sáu chứng giám". Khi mắng nhau thì bảo: "Cô Sáu vặn cổ mày đi"! Ngày 23-1 hằng năm là ngày giỗ cô Sáu. Đây là ngày giỗ rất lớn ở Côn Đảo mà Nhà nước và nhân dân cùng tổ chức. Người dân ở mãi TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ, Đồng Tháp…, dù phải vượt biển vẫn ra Côn Đảo giỗ cô Sáu. Trong số họ có rất nhiều người trước đây là cai ngục ở các nhà tù Côn Đảo. Trong nhà tưởng niệm, ấn tượng nhất là tủ lễ vật bà con cúng giỗ cô Sáu từ nhiều năm qua. Cái tủ kính cao to treo chật hàng mấy chục bộ quần áo dài thiếu nữ đủ màu trắng, xanh, tím hoa cà. Một người dân bảo với tôi: "Vì bà Sáu mất khi còn trinh nữ, lại bị kẻ ác giết oan, nên rất linh thiêng, ai ăn ở hiền lành thì bà phù hộ, ai ác độc thì bà vặn cổ!". Trong tủ còn có cái hộp đựng đồ trang sức đầy ắp dây chuyền, bông tai, nhẫn vàng… người dân cúng để cô Sáu làm trang sức. Tôi hỏi cô Thanh Vân - hướng dẫn viên của Di tích: "Dây chuyền, hoa tai này là vàng thật hay giả?". Thanh Vân trừng mắt: "Thật chứ làm sao giả được. Giả là cô Sáu vật chết ngay à!". Những huyền thoại Võ Thị Sáu linh thiêng xuất hiện ngay từ khi cô nằm xuống trên đất Hàng Dương hơn 60 năm trước. Thanh Vân kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về hồn thiêng cô Sáu. Ngày trước, trước mộ cô Sáu có một cây dương già bị khô phần ngọn, chỉ còn gốc cây và một nhánh dương tươi tốt vươn thẳng về phía bắc. Người dân bảo đó là hồn cô Sáu hướng về phía bắc, về Bác Hồ. Người dân Côn Đảo bảo rằng họ đã từng nhìn thấy cô Sáu bước ra từ cây dương mỗi tối. Cô mặc áo dài trắng, lướt qua từng đường phố, hiện lên trước cửa từng nhà, nhìn tận mặt từng người. Sau khi giám sát mọi việc thiện ác trên đảo, cô Sáu lại trở về biến hình vào cây dương khi trời chưa sáng, trước lúc mọi người thức dậy, đến nghĩa trang Hàng Dương, thắp hương, cắm hoa trước mộ cô trước khi đi làm việc. Ngay tấm bia mộ cô Sáu cũng có nhiều huyền thoại. Sau hôm cô Sáu bị giặc Pháp giết, kíp tù làm thợ hồ ở Khám 2, Banh 1 đã đúc bia bằng ximăng, dựng trước mộ. Chúa đảo Jarty tức tối dẫn lính lên nghĩa trang đập vỡ tấm bia, cào bằng mộ. Nhưng bọn cai tù không sao hiểu nổi, mỗi lần chúng đập phá bia mộ, ngay hôm sau ngôi mộ và tấm bia lại hiện lên như trước… Dân đảo đồn rằng cô Sáu linh thiêng, không ai có thể phá được mộ cô. Câu chuyện làm cho bọn gác ngục, bọn tù gian sợ sệt, chùn tay. Thực ra mộ và bia mộ đó đều do anh em tù thợ hồ làm trong đêm. Những người tù già ở Côn Đảo kể rằng, sau khi hành quyết Võ Thị Sáu, người lính lê dương già bỏ ăn suốt hai ngày. Ông ngồi suốt đêm ở gốc bàng đầu Cầu Tàu. Thẫn thờ, hốc hác. Ông tâm sự với người tù làm bồi: "Đôi mắt cô gái đã ám ảnh tôi, và có thể sẽ ám ảnh tôi suốt đời. Tôi phải bỏ nghề, tôi không thể bắn được nữa!". Cô Liễu, vợ tên giám thị Ruby, người đã ngất xỉu khi chứng kiến cuộc hành hình cô Sáu, kể rằng: Xẩm tối hôm 30 Tết, cô lén chồng đem hương hoa lên viếng mộ cô Sáu, bỗng thấy một người con gái mặc áo dài trắng từ một ngôi mộ đi ra. Liễu sụp lạy rối rít. Trên đường về nhà, đi tới đâu Liễu cũng thấy bóng cô gái trước mặt. Thế là Tết ấy, vợ chồng Liễu lập bàn thờ thờ cô Sáu ở nơi trang trọng nhất, sớm tối hương khói. Từ đó nhiều gia đình gác ngục người Việt lập bàn thờ cô Sáu. Họ tin rằng, một người con gái chết trẻ và chết thiêng như thế sẽ hoá thần. Vợ chồng viên cò Vol Peter tết năm ấy cũng dắt nhau lên mộ cô Sáu trồng khóm hoa dừa, là loài hoa mà Võ Thị Sáu đã vuốt ve ở sân Sở Cò, khi vợ Vol Peter đề nghị chồng cho chị mười phút ra sân hong tóc, tắm nắng chuẩn bị ra pháp trường. Đến hôm nay, những khóm hoa dừa đó vẫn nở bên mộ cô Sáu. Có lần người dân đảo xôn xao về cái chết của tên tù gian Nguyễn Văn Tân. Xác hắn bị treo trên cây bằng lăng trong vườn nhà Giám thị trưởng Passi. Người ta cho rằng, hắn bị giết chết vì vụ thất thoát 200 ngàn đồng (tiền Đông Dương) của Hợp tác xã Tiêu thụ mà hắn làm kế toán. Nhưng dân đảo thì cho rằng, tên Tân chết là do cô Sáu "bắt" vì hắn là tên hung hăng nhất trong đám đập bia phá mộ cô Sáu! Cũng thời gian ấy Chúa đảo Jarty bị rơi sao, mất chức vì vụ 200 tù nhân đóng thuyền vượt ngục ở Bến Đầm. Người ta bảo cô Sáu đã "phù hộ" anh em tù đào hầm đóng thuyền vượt biển và trừng trị tên chúa đảo vì hắn quá tàn ác. Bạch Văn Bốn, tên chúa đảo đầu tiên thời Mỹ - Diệm khét tiếng chống cộng, cưỡng ép tù nhân ly khai cộng sản, cấm viếng mộ cô Võ Thị Sáu. Trong 4 năm Bốn làm tỉnh trưởng Côn Đảo đã có 500 tù nhân bị giết. Hắn biết chuyện cô Sáu linh thiêng, nhưng hắn cho là luận điệu tuyên truyền của Việt Cộng. Một khuya, Bốn mở cửa Dinh ra sân, hắn thấy một người con gái bước ra Cầu Tàu. Hắn rút súng cầm tay. Chợt cô gái quay phắt lại, bước tới và nhìn thẳng vào mắt hắn. Sợ quá, Bốn bủn rủn chân tay, để rơi khẩu súng, hớt hải chạy vào nhà, đóng cửa lại và lầm rầm cầu nguyện. Từ đó Bốn rất sợ cô Sáu. Có thằng tên là Nghị mới bị đày ra đảo làm trật tự an ninh, chưa biết oai linh cô Sáu. Hắn nghe lời tỉnh trưởng Lê Văn Thể (thay Bạch Văn Bốn) ra đập phá bia mộ cô Sáu. Hắn đập nát bia, đập luôn lư hương và hai bình cắm hoa. Tất nhiên hôm sau tấm bia mới lại được dựng lên. Còn tên Nghị thì ít hôm sau người ta thấy hắn gầy tóp lại, vật vờ dọc đường phố gần nhà thương. Hắn sốt li bì, không ăn uống gì được. Nhà thương Côn Đảo không chữa được, làm giấy chuyển hắn vào nhà thương Chợ Quán. Ba ngày sau hắn chết. Tỉnh trưởng Côn Đảo Tăng Tư lên thay Lê Văn Thể. Hắn nghe kể nhiều về cô Sáu nên âm thầm lập bàn thờ cô Sáu tại tư dinh và không dám tàn nhẫn với tù nhân. Tăng Tư đã một lần dùng oai linh cô Sáu để xử kiện. Hai tên giám thị nghi ngờ nhau ăn trộm, làm đơn kêu kiện. Tăng Tư ra lệnh hai đứa nhảy lên xe ra mộ cô Sáu mà thề, đứa nào gian cô Sáu biết ngay. Thế là có đứa sụp xuống nhận tội! Chính tên Tăng Tư này đã về Chợ Lớn đặt một tấm bia mộ Võ Thị Sáu bằng cẩm thạch chở ra đảo, làm lễ đặt bia rất long trọng. Tấm bia mộ bằng đá cẩm thạch đó tồn tại được 9 năm, lại bị thằng tù quân phạm tên là Sước nghênh ngang vác búa đập phá. Sáng hôm sau, thấy vắng Sước, người ta đi tìm thì thấy hắn đã nằm chết trên một tảng đá to phía bờ biển! Chuyện cô Sáu linh thiêng bà con Côn Đảo kể cả ngày không hết. Tôi nhớ trước đây, ở căn hộ của nhà văn Phùng Quán phía sau Trường Chu Văn An có lập một bàn thờ thờ chị Võ Thị Sáu! Trên bàn thờ có treo một bài thơ dài cắt ra từ Báo Tiền Phong năm 1955, cùng với bức ảnh chị Võ Thị Sáu bên cạnh, đóng khung rất trang trọng. Đó là Trường ca Võ Thị Sáu, giải Nhất cuộc thi sáng tác hưởng ứng Đại hội liên hoan Thanh niên, sinh viên thế giới Vacxava (Ba Lan). Anh Quán thờ bài thơ và chị Sáu từ năm 1982, khi hai vợ chồng dọn về ở đây, như một bảo vật. Anh thường bảo với tôi: "Cô Sáu thiêng lắm. Hình như cô Sáu bày cho mình biết trước nhiều chuyện tai ương cuộc đời để né tránh, từ sau vụ "nhân văn" ấy…! Võ Thị Sáu dạy mình sống thuỷ chung với lý tưởng mà mình đã chọn: Vệ Quốc Đoàn! Ngày nào mình cũng thắp nhang trên bàn thờ cô Sáu. Mỗi lần thắp nhang khấn vái cô Sáu, đầu óc mình như sáng láng hơn lên, viết suốt ngày không biết mệt! Vì sự cố nghề nghiệp nên khi in sách mình ký bút danh khác, nhưng cũng kiếm được tiền nuôi các cháu! Ơn chị Sáu to lắm". Nghe huyền thoại cô Sáu, tôi cứ miên man nghĩ về sự tồn tại vĩnh hằng của con người. Người như Võ Thị Sáu, dù chết khi còn rất trẻ, nhưng là người sống mãi với nhân dân, với hồn thiêng sông núi. Theo Ngô Minh, CAND
- Những loài khủng long lớn nhất thế giới
Khủng long có lẽ là sinh vật thời tiền sử được nhiều người biết đến và quan tâm nhất. Vào thời kỳ cực thịnh, loài sinh vật khổng lồ này đã tạo nên một đế chế cho riêng mình, trở thành vị vua của cả bầu trời, mặt đất và đại dương. Dreadnoughtus là tên của một chi khủng long khổng lồ thuộc bộ Khủng long hông thằn lằn. Chiều dài của cá thể lớn nhất thuộc chi này, từng được phát hiện, lên đến 26 mét, kèm theo đó là một khối lượng cơ thể khổng lồ- 59 tấn. Hiện nay, các mẫu hóa thạch của Dreadnoughtus chỉ mới được ghi nhận ở khu vực Nam Patagonia, Argentina với niên đại khoảng 77 triệu năm. Tính đến thời điểm hiện tại, Patagotitan mayorum là một trong những động vật trên cạn lớn nhất từng xuất hiện, trong lịch sử. Các mẫu hóa thạch của loài khủng long này được phát hiện lần đầu tiên vào năm 2014. Tuy nhiên, chúng lại vừa chỉ mới được định danh từ tháng 8 năm ngoài. Qua mẫu vật thu thập được, các nhà khoa học ước tính rằng, Patagotitan mayorum sống vào khoảng thời gian 95-100 triệu năm trước. Kích thước của gã khổng lồ này có thể đạt 37,2 mét về chiều dai và nặng đến 70 tấn. Được biết, người ta từng phát hiện được một khúc xương đùi hoàn chỉnh của Patagotitan mayorum dài đến 2,4 mét. Argentinosaurus là chi khủng long được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1987, khi người ta khai quật được mẫu hóa thạch, có kích thước bằng một người trưởng thành, của chúng ở Argentina. Cho đến nay, mặc dù chưa có một bộ xương hóa thạch hoàn chỉnh nào của Argentinosaurus được tìm thấy nhưng dựa trên mẫu vật hiện có và các phép toán, giới khoa học ước đoán rằng, cá thể trưởng thành của chi khủng long này có thể đạt chiều dài từ 37 đến 40 mét và nặng 100 tấn. Loài khủng long Paralititan stromeri được mô tả chính thức vào năm 2001, sau khi những mẫu hóa thạch của nó, được tìm thấy ở một khu vực cách thủ đô Cairo, Ai Cập khoảng 300 km về phía Tây Nam. Đến nay, những hóa thạch thuộc về loài Paralititan stromeri mới chỉ bao gồm một khúc xương đùi dài 1,69 mét, xương chân trước, răng, xương sống và các mảnh vụn xương vai. Những bằng chứng này cũng cho thấy Paralititan stromeri thuộc vào top những loài khủng long lớn nhất từng xuất hiện. Cụ thể, chiều dài của Paralititan stromeri, theo tính toán, có thể đạt đến 25-30,5 mét và nặng 60-75 tấn. Với chiều dài cơ thể trưởng thành ước đạt 40-60 mét, cùng khối lượng lên đến 122 tấn, A. fragillimus chính là loài khủng long lớn nhất mọi thời đại. Kích thước khổng lồ này cũng khiến các nhà khoa học tin rằng, chúng chính là động vật có xương sống dài nhất từng được biết đến. Điều đặc biệt là tất cả những thông số trên đều được tính toán từ một mẩu xương hóa thạch duy nhất, được tìm thấy của A. fragillimus. Dựa theo hệ thống phân loại, A. fragillimus là đại diện đến từ chi Khủng long hai khoang rỗng, vốn là một chi khủng long ăn thực vật phổ biến. Nguồn: Dantri
- Bí ẩn về Rosalia Lombardo - xác ướp gần trăm năm còn chớp mắt
Không ít du khách tới tham quan hầm mộ Cappuccini, Italy, cảm thấy rợn tóc gáy khi thấy đôi mắt của xác ướp Rosalia động đậy. Cô bé Rosalia Lombardo mới lên hai khi qua đời vì bệnh viêm phổi vào năm 1920. Quá đau buồn trước cái chết của cô con gái bé bỏng, người cha nhờ tới Alfredo Salafia, chuyên gia ướp xác kiêm thợ nhồi bông thú nổi tiếng thời bấy giờ của thành phố Palermo, Italy. Alfredo thể hiện tay nghề chuyên nghiệp của mình với Rosalia, đến nỗi gần 100 năm sau cô bé trông như thể chỉ đang mơ màng sau tấm kính. An nghỉ trong hầm mộ Catacombe Dei Cappuccini bên dưới một tu viện của Palermo, Rosalia vẫn giữ được những nét trẻ thơ với gò má nhỏ hơi phúng phính, hàng mi khép hờ và trên đầu cột một chiếc nơ lụa quanh búi tóc mây vàng. Người ta ưu ái gọi cô bé là "Người đẹp ngủ trong rừng" (Sleeping Beauty). Nội tạng bên trong thi thể vẫn còn nguyên vẹn, khiến Rosalia trở thành một trong những xác ướp được bảo quản tốt nhất trên thế giới. Nổi bật giữa hàng nghìn xác ướp dưới hầm mộ Cappuccini, Rosalia thu hút đông đảo khách tham quan mỗi ngày. Không ít du khách đã có những giây phút rợn tóc gáy khi chứng kiến Rosalia khẽ chớp mắt. Điều kỳ lạ nằm ở chỗ, đôi mắt của Rosalia, cũng giống như những phần khác trên cơ thể, cứng như hóa đá trong quá trình ướp xác. Hiện tượng này trở thành chủ đề được bàn tán sôi nổi qua nhiều năm. Một số báo cáo lưu lại bằng chứng qua hình ảnh và video cho thấy đôi mắt của xác ướp Rosalia mở rồi lại nhắm nhiều lần trong ngày. Có người cho rằng nhiệt độ dưới hầm mộ thay đổi, tạo hiệu ứng đóng mở cho mi mắt của Rosalia. Tuy nhiên, Dario Piombino-Mascali, người trông nom hầm mộ, đưa ra một giả thuyết hoàn toàn khác. Ông tin rằng đôi mắt biết chớp của Rosalia chỉ là một ảo ảnh quang học, được hình thành khi những tia sáng rọi qua cửa sổ và chiếu tới quan tài dưới một góc nhất định. Khi hướng của ánh sáng thay đổi, Rosalia trông như mở rồi lại nhắm mắt nhiều lần trong ngày. Dario phát hiện ra điều này vào năm 2009. Khi đó, ông có cơ hội quan sát đôi mắt của Rosalia rõ hơn, do công nhân bảo tàng vô tình xê dịch thi thể của cô bé khi chuyển quan tài. Thực tế, đôi mắt của Rosalia chưa từng khép chặt. Song khám phá lớn nhất của Dario chính là tìm ra công thức ướp xác bí mật mà Alfredo Salafia đã áp dụng với Rosalia. Không áp dụng phương pháp tương tự những kỹ thuật ướp xác khác trên thế giới, Alfredo không loại bỏ hoàn toàn nội tạng và bơm đầy muối natron để làm khô thi thể Rosalia. Ông chích một vết nhỏ lên người Rosalia, tiêm hỗn hợp formalin, muối kẽm, rượu, axit salicylic và glycerin vào trong. Mỗi thành phần trên đều có một vai trò đặc biệt: formalin tiêu diệt mọi loại vi khuẩn, glycerin duy trì độ ẩm nhất định còn axit sẽ ngăn chặn nấm mốc phát triển. Công thức thần kỳ này chứa muối kẽm, thứ khiến thi thể của Rosalia như hóa đá, ngăn phần má hay hốc mũi bị biến dạng. Giả thuyết của Dario đã dập tắt nhiều lời đồn đoán hay những câu chuyện vô thực được thêu dệt xoay quanh xác ướp của cô bé. Tuy đã phần nào không còn mang màu sắc kỳ bí, xác ướp Rosalia vẫn luôn là tâm điểm với khách tham quan hầm mộ tại Palermo. Theo National Geographic
- Bí ẩn tiếng vọng từ đại dương
"Tiếng vọng" từ đại dương: Bí ẩn khiến giới khoa học không thể giải mã suốt gần 3 thập kỷ Gần 3 thập kỷ đã qua, bí ẩn về âm thanh khác thường này vẫn khiến giới khoa học không ngừng tìm hiểu. Ở phía Bắc Thái Bình Dương có một chú cá voi. Tất nhiên, trong đại dương bao la ấy có vô vàn cá voi. Thế nhưng chú cá voi này vô cùng khác biệt. Nó là một con cá voi đực thuộc giống cá voi xanh hoặc cá voi vây. Không một ai có thể chắc chắn, vì chưa một ai từng nhìn thấy nó. Bí ẩn, vô hình, chú cá voi này vẫn nổi tiếng khắp thế giới, vì nó là chú cá voi cô đơn nhất hành tinh. Ngày 7/12/1992: Tròn một năm Liên Xô giải thể, Chiến tranh Lạnh Mỹ-Xô kết thúc. Trạm Không quân Hải quân đảo Whidbey (Mỹ) vẫn còn. Thái Bình Dương vẫn vậy - vùng biển rộng lớn và vô hạn, vượt ra ngoài đường băng mang tên William Ault - phi công hi sinh trong Trận chiến biển San Hô thời Thế chiến II nhưng thi thể chưa bao giờ được tìm thấy - đã chứng minh một điều: Đại dương "nuốt chửng" con người và khiến họ trở nên bất tử dưới dòng nước sâu. Nhưng trong những ngày cuối năm 1992 đó, cũng tại trạm không quân hải quân đó, Thái Bình Dương xuất hiện một thứ gì đó hữu hạn: Âm thanh kỳ lạ. Có tần số bất thường 52 Hz. Âm thanh phát ra từ một sinh vật đang di chuyển qua vùng biển Thái Bình Dương. Nó đang "hát" một khúc ca đơn độc, cao vút. Phân tích ảnh phổ của sinh vật bí ẩn này, các nhà hải dương học Mỹ dự đoán nó là con cá voi xanh khổng lồ (dài 30m, nặng khoảng 180 tấn), phát ra tần số khiến không một loài cá voi nào có thể nghe thấy. Họ đặt tên nó là 52 Blue (hay Cá voi 52 Hertz). Đối với con người, 52 Hz là một âm thanh thấp - giống như nốt thấp nhất của kèn Tuba - nhưng nó cao đối với cá voi. Thông thường, cá voi "hát" để điều hướng, tìm thức ăn, giao tiếp và tìm kiếm bạn tình. Tiếng hát của chúng dù cách xa hàng ngàn dặm vẫn được đồng loại nghe thấy. Miễn là chúng có cùng tần số, cá voi xanh phát ra tần số từ 10 đến 39 Hz, cá voi vây là 20 Hz (tương đương với những nốt trầm nhất của phím đàn piano). Bài hát phát ra tần suất mà không một loài cá voi nào có nghe được. Nó cao vút đến kỳ lạ. Và cũng cô độc đến khác thường. Không ai chắc chắn tại sao 52 Blue lại hát ở tần số bất thường này. Một số nhà sinh vật học đưa ra giả thuyết rằng chú cá voi này có thể bị dị hình theo một cách nào đó hoặc là con lai của hai loài cá voi. Vì không có đồng loại nào nghe được tiếng nó gọi, giới khoa học quyết định lắng nghe 52 Blue nhiều hơn. Dù có thể nó cô độc ở thế giới đại dương nhưng lại không hề lạc lõng giữa tình yêu của các nhà khoa học, của con người. Giới khoa học lắng nghe và cố gắng "hồi đáp" với nó. Không chỉ phát ra tần suất cao, hành trình của 52 Blue cũng rất khác thường. Năm 2004, các nhà nghiên cứu của Viện Hải dương Woods Hole đã xuất bản một bài báo về 52 Blue trong một tạp chí có tên Deep Sea Research, với nội dung: 52 Blue di chuyển liên tục trên khắp các vùng nước sâu của vùng trung tâm và phía đông lưu vực Bắc Thái Bình Dương. Nó đang thực hiện hải trình rộng nhất so với bất kỳ loài cá voi nào trên thế giới. Đối với hầu hết các loài cá voi khác, chúng thường di cư đến cùng một khu vực mỗi năm: Di cư đến vùng biển nhiệt đới vào mùa đông và đến vùng nước lạnh hơn vào mùa hè. Tuy nhiên, đối với 52 Blue lại khác biệt. Hải trình của nó thay đổi từ năm này sang năm khác và nó không dành nhiều thời gian ở một nơi. Đôi khi nó quay lại dọc theo bờ biển mà anh ta vừa đi. Một mùa khác, nó lại bơi ra vùng nước sâu hơn. Chính vì sở thích đi vô định, không thể đoán trước của 52 Blue mà cho đến tận ngày nay, không một nhà khoa học nào từng tìm được nó, nhìn thấy nó. Tất cả những gì con người biết về cá voi 52 Blue là giọng hát cao vút vừa bi thương, vừa cao ngạo của nó. Nhìn vào những đường rối rắm trên bản đồ của 52 Blue, các nhà khoa học không thể không đặt câu hỏi: 52 Blue đang tìm kiếm thứ gì vậy? Còn rất nhiều bí ẩn về 52 Blue mà giới khoa học chưa thể giải đáp. Dù phát hiện ra 52 Blue từ năm 1992 đến nay, giới khoa học vẫn chưa thể hiểu hết về "huyền thoại biển xanh" này: "Chúng ta chẳng thể hiểu 52 Blue. Chú cá voi ấy có đơn độc hay không? Người ta thích mường tượng về một sinh vật khổng lồ, năm này qua năm khác vẫn hát một khúc ca độc hành mà chẳng đồng loại nào nghe được. Nhưng có thật là 52 Blue chỉ có một mình trong đại dương sâu thẳm? Hay 52 Blue không có thật mà chỉ là một "bóng ma" đại dương? Thật mơ hồ". Điều này thật dễ lý giải vì cho đến nay, chưa một ai từng nhìn thấy hoặc tìm kiếm 52 Blue. Nói cách khác, chưa một ai tận mắt nhìn thấy nó. 52 Blue không chỉ một sinh vật khổng lồ cô độc nhất hành tinh, câu chuyện về nó ẩn dụ cho sự cô đơn. 52 Blue không chỉ một sinh vật khổng lồ cô độc nhất hành tinh. (Nguồn: Internet). Một trong những nỗ lực tìm kiếm 52 Blue đến từ Josh Zeman, một nhà làm phim thực hiện bộ phim tài liệu có tên "52: The Search for the Loneliest Whale in the World" (tạm dịch: Hành trình tìm kiếm cá voi cô độc nhất hành tinh). Trong số những chủ đề đạo diễn Josh Zeman nổi bật lên chủ để về sự cô đơn hiện đại, và các con người phản ứng với câu chuyện của cá voi 52 Blue trong kỷ nguyên kỹ thuật số khi Internet hứa hẹn kết nối hàng triệu người online nhưng thực sự có thể khiến chúng ta bị cô lập sâu hơn. Tuy nhiên, không chỉ ẩn dụ về sự cô đơn, 52 Blue còn truyền tải thông điệp về sự lạc quan: Gần 3 thập kỷ kể từ khi con người phát hiện ra thông điệp âm thanh của nó, 52 Blue vẫn luôn cất tiếng hát giữa đại dương sâu thẳm. Nó vẫn miệt mài gọi đồng loại, và thực hiện hành trình khác lạ để tìm kiếm bạn. Hy vọng ngày nào đó tự nhiên sẽ đáp hồi. Dẫu thế, những gì con người hiểu về sinh vật khổng lồ này vẫn chẳng là gì. Cái mác "cô độc" mà bao người gán vào 52 Blue có phải sự thực hay không? Có thật là 52 Blue chỉ có một mình trong đại dương sâu thẳm? Hay thậm chí liệu 52 Blue có thực sự tồn tại hay chỉ là một "bóng ma" biển cả? Tất cả những câu hỏi này đều đã được đưa ra suốt hơn 30 năm, và chúng ta chỉ có thể tiếp tục chờ đợi câu trả lời. [Ngưỡng nghe của con người có tần số dao động từ 20 đến 20.000 Hz. Dưới tần số 20 Hz gọi là hạ âm. Trên tần số 20.000 Hz gọi là siêu âm]. Theo khoahoc.tv
- Cô gái hồi sinh sau một đêm bị đóng băng khiến y học không thể lý giải
27 năm trước Jean Hilliard (Mỹ) bị đóng băng suốt 6 giờ đã hồi sinh kỳ diệu khiến các bác sĩ vô cùng bất ngờ. Đêm 20/12/1980, thời tiết lạnh giá, nhiệt độ giảm xuống âm 22 độ F (-30 độ C). Jean Hilliard lúc đó 19 tuổi lái xe từ nhà bạn về nhà cha mẹ ở Lengby, Minnesota. Bất chợt, cô gái lạc tay lái và lao chệch khỏi đường. Chiếc xe dừng lại và không thể khởi động lại máy, Jean quyết định đi bộ đến nhà Wally Nelson - một người bạn, cách đó khoảng 3,2km. Jean Hilliard lúc đó chỉ đi giày tây, khoác một chiếc áo khoác và đeo găng tay. Quần áo không đủ ấm nên Jean ngã gục xuống đường khoảng vài mét trước cửa nhà người bạn. Cô nằm bất động trong tuyết cho tới khi được Nelson phát hiện vào khoảng 7h sáng hôm sau. Thời điểm đó, người cô đã cứng như một tảng đá và Nelson phải đẩy cô vào ghế sau ôtô rồi đưa đến bệnh viện. Theo Nytimes, các bác sĩ tại Bệnh viện Fosston sững sờ trước tình trạng của Jean. Họ cố gắng truyền dinh dưỡng cho cô qua đường tĩnh mạch nhưng cây kim không thể xuyên qua lớp da đã đóng băng. Bác sĩ cũng không thể đo nhiệt độ cho cô bằng nhiệt kế. Khuôn mặt và đôi mắt cô đông cứng, không phản ứng gì với ánh sáng. Cơ thể bệnh nhân không đáp ứng với bất kỳ hình thức chăm sóc y tế nào. Bác sĩ George Sather điều trị cho Jean cho biết: "Cơ thể cô ấy lạnh lẽo, đông cứng giống như một miếng thịt để trong ngăn đá tủ lạnh. Các chi đều không thể gập hoặc cử động. Cô ấy không có bất kỳ một phản ứng nào trong khoảng hai hoặc ba giờ sau khi bắt đầu tan băng. Nhịp tim của Jean chỉ đập 8 lần mỗi phút. Nhiệt độ cơ thể khoảng 26 độ C". Các bác sĩ lắc đầu bất lực. Họ nói các tế bào hoàn toàn đông cứng, các cơ quan nội tạng cũng lạnh dần, sẽ càng khó hơn để chúng có thể thực hiện chức năng của mình cho tới khi hoàn toàn ngừng hẳn. Thậm chí não cũng không thể cứu. Jean sẽ không còn hy vọng nào cả. Điều duy nhất các bác sĩ có thể làm cho cô gái trẻ là đắp các túi giữ ấm quanh người cô để nâng nhiệt độ cơ thể lên, làm tan lớp băng. 11h trưa, Jean bắt đầu co giật và lấy lại được ý thức một cách thần kỳ. Mọi người xung quanh cô đều kinh ngạc. Vào ban đêm, cô có thể di chuyển đôi cánh tay. Đến ngày thứ 3, đôi chân của cô cũng có thể di chuyển. Cô phải điều trị y tế trong 49 ngày tiếp theo nhưng sau đó hồi phục hoàn toàn và không phải cắt bỏ ngay cả một ngón tay. Đến nay, không ai biết được làm cách nào mà cơ thể của cô gái lại có thể phục hồi hoàn toàn khỏi trạng thái đóng băng cứng như vậy. Trường hợp của Jean Hilliard hiện vẫn còn là một bí ẩn của ngành y. Vì sao một cơ thể có thể sống sót trong trạng thái rắn khi bị đông lạnh? Không giống như nhiều vật chất, nước chiếm một thể tích lớn khi ở thể rắn, và thậm chí còn nhiều hơn cả khi ở thể lỏng. Sự giãn nở theo nhiệt độ này là một tin xấu đối với các mô tế bào bị nhiễm lạnh, vì chất lỏng bên trong cơ thể có nguy cơ bị phồng lên đến mức làm vỡ tung các mạch máu, hay xuyên thủng màng tế bào. Tuy nhiên, cơ thể của Hilliard lại chưa gặp phải những tình trạng này. Theo lý giải của khoa học, rất có thể nạn nhân dù bị hạ thân nhiệt, nhưng vẫn có nhiệt độ cao hơn nhiều so với mức đóng băng. Nếu cơ thể người bị lạnh sẽ xuất hiện hiện tượng hạ thân nhiệt. Sự nguy hiểm của hiện tượng hạ thân nhiệt phụ thuộc vào từng mức độ giảm nhiệt cơ thể. Cụ thể khi xuống mức 32 độ C, cơ chế bù trừ nhiệt độ của cơ thể bắt đầu suy giảm, trạng thái tâm thần có thể biến đổi và thậm chí người bệnh có thể bị mất trí nhớ. Khi xuống mức 27 độ C, nạn nhân bắt đầu mất ý thức. Khi còn dưới 21 độ C, trạng thái hạ thân nhiệt nặng sẽ diễn ra, và có thể dẫn tới tử vong. Kỷ lục ghi nhận thân nhiệt thấp nhất của một người trưởng thành mà vẫn sống sót là ở 13,7 độ C. Ở thời điểm đó, người này đã bị ngâm trong nước lạnh và đóng băng trong thời gian khá lâu. Trên thực tế, cơ thể người hay bất kỳ loài động vật nào cũng sẽ trở nên căng cứng một cách rõ rệt khi gặp phải tình trạng hạ thân nhiệt nghiêm trọng. Điều này dễ gây nhầm lẫn với tình trạng đóng băng, dù mức độ nghiêm trọng của 2 trạng thái này là khác nhau. Đối với Hilliard, cơ thể của cô có lẽ đã gặp phải tình trạng căng cứng giống như khi xảy ra với một xác chết. Điểm lợi của trạng thái này đó là cơ thể sẽ tự động "đóng" các kênh dẫn đến mạch máu dưới da, nhằm giữ cho các cơ quan bên trong vẫn hoạt động ổn định. Cơ chế này hoạt động hiệu quả đến mức rất dễ khiến người ta lầm tưởng rằng nạn nhân đã chết, với biểu hiện hoàn toàn lạnh ngắt khi chạm vào và không có dấu hiệu của sự sống. Thậm chí nhịp tim cũng được đưa về ở mức rất thấp. Khi cơ thể rơi vào trạng thái này, các nhân viên y tế sẽ rất khó để cứu giúp nạn nhân, vì họ không thể dùng kim tiêm để xuyên qua lớp da do các tĩnh mạch bị co thắt nặng nề, và tình trạng mất nước khiến chúng ép chặt vào các cơ bên trong. Nạn nhân lúc này cũng ở trạng thái cực kỳ nguy hiểm, và cận kề cái chết nếu như không có sự can thiệp kịp thời. Những điều này cho thấy Hilliard đã hoàn toàn may mắn và sống sót một cách thần kỳ khi cô thực sự đã "đối mặt với tử thần". Câu chuyện cũng cho thấy những điều tuyệt vời mà cơ thể con người có thể đạt được. Dẫu vậy, chúng ta không nên trông chờ vào may mắn, vì rất ít người có khả năng chịu đựng sự thay đổi trạng thái khắc nghiệt tới như vậy. Theo khoahoc.tv
- “Mẹ đẻ” của Wifi là người “đẹp nhất thế giới”
Nhắc đến Hedy Lamarr (tên thật ʟà Hedwig Eva Maria кiesler, siոh năm 1914), ոhiều ոցười sẽ ոhớ ոցay đến một đại miոh tiոh Hollywood sở hữu ոhiều vai diễn để đời troոց Algiers, The Strange Woman hay Samson and Delilah. Bên ϲạոh đó, Hedy ϲòn được mệոh daոh ʟà “người phụ nữ đẹp ոhất thế giới” ոhờ ϲó vẻ đẹp mà ոցười đời ϲa tụոց ʟà “bất tử”. Hedy Lamarr ʟà nữ miոh tiոh sở hữu ոhan sắc được xếp vàօ hàոց huyền thoại bên ϲạոh ոhữոց Elizabeth Taylor hay Audrey Hepburn… Thế ոhưոց tạp ϲhí Forbes ϲó viết, di sản vĩ đại ոhất mà bà để ʟại ϲhօ ոhân ʟoại кhôոց phải ở ʟĩոh vực điện ảոh mà ʟại ʟà ở phươոց diện ϲôոց ոցhệ. Ít ai ոցờ được Hedy ϲhíոh ʟà ոցười phát miոh ʟà ϲôոց ոցhệ ոhảy tần số vàօ năm 1941, vốn ʟà tiền thân ϲủa Wifi, GPS hay Bluetooth mà hàոց tỉ ոցười trên thế giới đaոց sử dụոց ոցày nay. Hedy siոh ɾa và ʟớn ʟên ở Áօ ɾồi ʟấy ϲhồոց vàօ năm 19 tuổi. Soոց ϲuộc hôn ոhân hạոh phúc đã кhiến bà bỏ ոhà đi ոցay troոց đêm bằոց xe đạp. Hedy sau đó di ϲư đến Mỹ và được ոցười đứոց đầu MGM Studiօ để mắt đến và dần ϲó được ոhữոց hợp đồոց vai diễn quan trọոց ở Hollywood. Khôոց ϲhỉ ʟà một diễn viên, Hedy ϲòn được tôn viոh ʟà thiên tài, “mẹ đẻ” ϲủa Wifi. Nhan sắc ɾực ɾỡ ϲủa Hedy кhiến baօ ոցười phải say đắm. Người đẹp gốc Áօ ոhaոh ϲhóոց địոh ϲư ở Beverly Hills và quen biết với ոhữոց tên tuổi ʟớn, troոց đó ϲó ϲả ϲựu Tổոց thốոց Mỹ John F. кennedy và ոhà tài phiệt Howard Hughes. Họ ϲũոց ϲhíոh ʟà ոցười ϲuոց ϲấp ϲhօ Hedy ոhữոց thiết bị thí ոցhiệm để bà thực hiện ոցhiên ϲứu troոց кhoảոց thời gian кhôոց đi đóոց phim. Nhữոց phát miոh ϲủa Hedy vô ϲùոց đa dạng, ϲó thể кể đến một số thứ độc đáօ ոhư viên nén ϲó thể hòa tan troոց nước và tạօ thàոh đồ ᴜốոց ϲó ga thơm ոցon hay một thiết кế ϲải tiến ϲhօ đèn giaօ thôոց ʟúc bấy giờ. Bà đam mê ʟàm ϲác ϲuộc ոցhiên ϲứu, thí ոցhiệm кhi кhôոց phải đóոց phim. “Phát miոh ʟà điều dễ dàոց đối với tôi. Tôi кhôոց ϲần phải vắt óc suy ոցhĩ về ϲác ý tưởng, ϲhúոց đến một ϲách ɾất tự ոhiên.” – Hedy nói troոց bộ phim tài ʟiệu Bombshell: The Hedy Lamarr Story và phát miոh quan trọոց ոhất mà bà tạօ ɾa xuất phát từ moոց muốn giúp đỡ nước Mỹ troոց thời кì Thế ϲhiến thứ II. Hedy đã vận dụոց toàn bộ кhả năոց và óc sáոց tạօ ϲủa mìոh để tạօ ɾa thiết bị ϲó кhả năոց gây ոhiễu tần số vô tuyến được sử dụոց để dẫn đườոց ϲhօ ոցư ʟôi. Nhà sử học Richard Rhodes từոց ϲhia sẻ: “Hedy biết ɾằոց tín hiệu vô tuyến ϲó thể gây ոhiễu. Tuy ոhiên nếu ϲó ϲách кhiến ϲác tín hiệu ոhảy một ϲách ոցẫu ոhiên từ tần số này saոց tần số кhác thì tín hiệu ϲủa đối phươոց sẽ кhôոց đoán được vị trí thực sự.” Phát miոh maոց tíոh ʟiên quan đến tần số vô tuyến ϲủa Hedy đã đóոց góp ɾất ոhiều troոց ʟịch sử. Dù đăոց кí bằոց sáոց ϲhế từ sớm soոց ϲôոց ʟaօ ϲủa Hedy кhôոց được biết đến ɾộոց ɾãi ở thời điểm đó. Có sẵn phươոց án giải quyết troոց đầu кèm theօ sự giúp đỡ ϲủa ոhà soạn ոhạc, đồոց thời ϲũոց ʟà phát miոh George Antheil, Hedy đã thàոh ϲôոց tạօ ɾa thứ mìոh muốn. Đến năm 1942, Hedy và George đã được ϲấp bằոց sáոց ϲhế ϲhօ phát miոh ϲhuyển đổi tần số vĩ đại này. Như vậy nếu кhôոց ϲó bộ óc sáոց tạօ ϲủa Hedy thì ɾất ϲó thể thế giới ϲủa ϲhúոց ta кhôոց phát triển được ոhư bây giờ. Nhưոց một điều đáոց tiếc ʟà vàօ thời điểm đó, sự phân biệt giữa nam và nữ ϲòn quá nặոց nề nên, thêm vàօ đó vai trò diễn viên ϲủa bà ʟại nổi bật кhôոց кém nên đóոց góp ϲủa Hedy ϲhօ ϲôոց ոցhệ đã bị ʟu mờ. Phải sau hàոց thập кỉ, кhi sự bìոh đẳոց nam nữ trở nên phổ biến hơn thì tên tuổi ϲủa Hedy mới được gắn ʟiền với phát miոh ϲủa ϲhíոh mình. Tiến sĩ Simon Nyeck – Chủ tịch thươոց hiệu tại Trườոց кiոh doaոh ESSEC ở Pháp nói ɾằng, troոց ʟịch sử, phụ nữ thườոց ϲhỉ được ոhìn ոhận và đáոh giá ϲaօ về mặt ոցoại hìոh ϲhứ кhôոց phải кhả năոց tư duy, phát miոh hay sáոց tạo. Dօ đó, ôոց hoàn toàn кhôոց ոցạc ոhiên кhi phải mất đến hàոց thập кỉ, ϲôոց ʟaօ ϲủa Hedy Lamarr mới được ghi ոhận. Con gái ϲủa Hedy – Denise Loder vô ϲùոց tự hàօ với trí tuệ ϲủa mẹ mìոh và ϲôոց việc mà bà đã ʟàm troոց suốt sự ոցhiệp để vượt qua ϲái ոhìn địոh кiến về phụ nữ: “Mẹ tôi đã đi trước thời đại bằոց ϲách bêոh vực quyền ʟợi dàոh ϲhօ phụ nữ.” – Denise nói troոց phim tài ʟiệu về mẹ mình. Nguồn: yan.vn